Bà bầu nên ăn cần có đủ 4 nhóm thực phẩm: nhóm chất
bột, nhóm chất đạm, nhóm chất béo và nhóm vitamin chất khoáng, chất xơ.
Khi có
thai, các bà mẹ phải luôn tâm niệm rằng mình ăn không chỉ cho bản thân mà còn
cho cả đứa con trong bụng. Khi mang thai, nhu cầu về năng lượng và các chất
dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn bình thường, vì nhu cầu này ngoài đảm bảo cung cấp
cho hoạt động của cơ thể, sự thay đổi về sinh lý của mẹ như biến đổi về chuyển
hóa, tăng cân, tăng khối lượng tuần hoàn, tăng khối lượng của tử cung, vú...
còn cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và tạo sữa cho con bú. Vì thế, bà
bầu nên ăn để tăng thêm cả số lượng và chất lượng.
Trong suốt
quá trình mang thai, người mẹ cần tăng từ 9 - 12kg, trong đó 3 tháng đầu tăng 1
- 2kg, 3 tháng giữa tăng 3 - 4kg, 3 tháng cuối tăng 5 - 6kg. Nếu mẹ tăng cân
tốt thì khi sinh ra, thai nhi sẽ đạt được 3kg. Tăng cân tốt, cũng đồng nghĩa
với việc người mẹ tích lũy được lượng mỡ lớn - chính là nguồn năng lượng dự trữ
để tạo sữa sau khi sinh. Nếu người mẹ không tăng đủ cân sẽ dễ dẫn đến nguy cơ
trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai, đồng nghĩa với việc thể chất và tinh thần của
trẻ sẽ không được tốt. Chính vì thế, chế độ ăn uống khi mang thai vô cùng quan
trọng.
Vậy mẹ bầu ăn bao nhiêu là đủ?
Theo các
chuyên gia dinh dưỡng, bà bầu nên ăn đủ 4 nhóm thực phẩm: nhóm chất bột gồm:
gạo, mì, ngô, khoai, sắn... Nhóm chất đạm gồm: thịt, cá, trứng, tôm cua, đậu
đỗ... Nhóm chất béo gồm: dầu, mỡ, vừng, lạc... Nhóm vitamin chất khoáng và chất
xơ gồm: rau xanh và quả chín.
Nhóm chất
đạm rất cần thiết cho bà mẹ mang thai. Nhu cầu chất đạm của người mẹ tăng lên
một phần để tổng hợp protein cho cơ thể mẹ, đồng thời còn phải cung cấp protein
cho thai nhi và nhau thai hình thành, phát triển. Chất đạm cần cho sự phát
triển mọi bộ phận của thai nhi, đặc biệt là tế bào não. Do vậy, ngoài nhóm chất
bột, người mẹ mang thai cần bổ sung thêm các thức ăn giàu đạm như thịt, cá,
trứng, sữa, tôm, cua...
Nên dùng
nhiều thực phẩm vừa giàu đạm vừa giàu canxi như tôm, cua, cá, ốc để giúp tạo
khung xương vững chắc của bào thai và phòng loãng xương cho người mẹ. Các mẹ
bầu cũng nên tận dụng nguồn đạm thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu
khác và vừng lạc. Những thức ăn này vừa rẻ, vừa giàu dinh dưỡng, dễ tiêu, lại
có thêm chất béo, cùng với dầu và mỡ vừa giúp tạo năng lượng dự trữ và gây dựng
các tế bào của thai nhi, lại vừa giúp hấp thu tốt các vitamin tan trong dầu
(vitamin A, D, E).
Bên cạnh
khẩu phần ăn cân đối giữa chất bột, chất đạm, chất béo, bữa ăn của bà mẹ mang
thai không thể thiếu rau xanh, quả chín. Các loại rau, củ, quả: rau muống, rau
ngót, rau cải, rau giền, mồng tơi, rau đay, cà rốt, củ cải, gấc, su hào, chuối,
xoài, đu đủ, nhãn, na... là nguồn cung cấp vitamin C, vitamin A, vitamin E giúp
bà mẹ tăng cường sức đề kháng; cung cấp chất sắt, axit folic tham gia vào quá
trình tạo máu...
Ngoài ra,
các bà mẹ trong vòng một tháng đầu sau khi sinh nên uống một liều vitamin A
200.000 đơn vị để đủ vitamin A trong sữa cho con bú 6 tháng đầu. Để có đủ lượng
máu để nuôi dưỡng cả cơ thể mẹ và con, nên ăn nhiều thức ăn có nhiều sắt như
thịt nạc, trứng, tim, gan, bầu dục, đậu đỗ, rau xanh... Ngoài ăn uống, bà mẹ
cần uống thêm viên sắt với hàm lượng 60mg sắt nguyên tố và 0,4mg folic hàng
ngày từ lúc bắt đầu mang thai tới sau khi sinh 1 tháng.
Bà mẹ còn
cần uống đủ nước khi mang thai. Lượng nước cần thiết hàng ngày khoảng 1,5 lít.
Không nên sử dụng các loại nước giải khát công nghiệp có lượng đường cao. Cũng
cần hạn chế dùng các loại kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc;
giảm ăn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét